.

Ruồi Trâu Blog

Quảng Trị mùa hè 1972 (I)

Nụ cười của anh lính Lê Xuân Chinh bên thành cổ (ảnh Đoàn Công Tính)
 Lời Bàn: Dịch giả Vương Trí Nhàn luôn khiến người đọc cảm thấy bình dị và rất đời thường với những đoạn nhật kí viết vội trong những thời điểm quan trọng của đất nước. Thời điểm mà thế hệ chúng tôi không được trực tiếp trải qua
========================================================
Nhật ký chiến tranh


25/5.

Hà Tĩnh- Quảng Bình
Trên những con đường Khu 4. Đường vào Nam.
Nắng hè, đường vắng một cách ghê sợ. Những toa tàu không có người. Những khu vực bị đánh phá nháo nhào. Ninh Bình. Bỉm Sơn. Nhà cửa vặn vỏ đỗ, đổ nát. Một cái đầu máy không có đường lui, không có đường tới.
Sông Lèn. Cầu Đò Lèn đổ như một người ngã xoài. Một cách gọn gàng, nhưng là ngã, đổ chổng kềnh. Kẻ địch không đánh lai rai như mọi lần. Nó đánh quỵ  luôn và khá chính xác.
Con đê bên sông hun hút đổ vào chân núi. Những làng xóm ven đê bé nhỏ, như những hang đá giờ chỉ còn lại những cụ già. Một cụ bảo ngày xưa, đây cũng nhiều nhà to. Đánh nhau hai lần, xé lẻ hết.
Buổi chiều, độ 5 gìờ, xe cộ chờ cầu phao đã bắt đầu xếp hàng. Tiếng hò nhau, gọi nhau của tốp TNXP vang động mặt sông. Đến gần thấy toàn những thanh niên độ 16, 17 quần đùi, ngực lép, bụng to, tóc tai mướt mát, cất lên bằng cái giọng đặc biệt của Thanh Hoá còn chưa được pha phách gì cả. Một lũ trẻ mới lớn. Chúng làm trò nghịch, động một tí thì kêu tướng lên, nhảy tùm xuống nước.
 Cầu phao, những khoang giữa chưa bắc, khoang bờ đã sửa soạn lắp. Một người chỉ huy thét váng lên, tháo ra, tháo ra. Một nét mặt Thanh Hoá (cái sơ mi cài cúc cổ, mớ tóc  buông dài) triết lý “đời là rứa đấy, đời là rứa đấy”.

Những gì đã thay đổi trong cách tiến hành chiến tranh của chúng ta, bốn năm sau cái lần tôi qua 1968?
Cầu phao đang bắc, đã thấy một tốp người đứng đen cả bờ sông. Họ đi lấy muồng về đun. Bắc xong, là họ à xuống, kéo suốt từ bờ này qua bờ kia.
Chiến tranh vẫn như cũ, dường như tất cả vẫn như cũ.
Lại những ngày ngồi thùng xe, ngắm lại phía sau không biết chán. Lại những cơn xóc giật nẩy người, chỉ sợ đập đầu vào khung sắt nóc xe. Những câu chuyện trên xe khi rôm rả, khi tẻ nhạt, và mọi người đều cảm thấy không nói thì chẳng biết làm gì, nên thỉnh thoảng nói lảm nhảm. Rồi nằm nhoài ra trên xe, cho đến khi mưa gió thì dậy che bạt, qua phà thì khép nép xuống, châm vội điếu thuốc, và lại lên xe.
Nhịp điệu một bài hát nào đó vẳng lên trong đầu. Tôi không muốn nói chuyện văn thơ, mà chỉ thích hát cho mình nghe. Giai điệu nọ gọi giai điệu kia. Ngồi bó gối sau xe, nghe đủ các câu chửi của các ông lái, ngắm trăng, chịu mưa và lại hát, lại nhớ về bè bạn Hà Nội. Một đôi lúc, đường tắc, xe không đi được, chờ phà, mệt mỏi, lởn vởn nghĩ hôm nay sẽ ngủ đâu, sẽ làm gì. Nhưng rồi lại nhanh chóng mặc kệ nó, kệ các ông chỉ huy, việc của mình mình làm -- lại ngồi với miên man những điều vô định. Cái đó, kể ra, cũng là một thứ cảm xúc thơ đấy chứ! Ngày trước lòng còn tươi trẻ, đôi lúc nghĩ mình có thể làm thơ. Một thứ thơ tiêu biểu cho cái mà lâu nay mình nghĩ rằng văn học mình đang như thế: một thứ bóng mát, một thứ ngơi nghỉ.
Nhớ bài thơ Trong chiều yên của Bằng Việt:
Đất nước gian lao hơn
Những điều tôi đã nghĩ
Đất nước sâu xa hơn
Những điều tôi đã kể
Khái niệm về đất nước vừa là cụ thể, vừa là mơ hồ, vừa là lung linh, vừa là rất... công thức. Trong cuộc chiến đấu hiện nay, dĩ nhiên chúng ta vẫn luôn luôn nhớ tới những cái đó. Nhưng chúng ta cũng là luôn luôn nghĩ đến một quan niệm, một chủ nghĩa, và quỷ quái chưa, cái sau mới thật ám ảnh mới thật phức tạp.

Cát Quảng Bình. Cũng là đất thôi, nhưng cát “đất hơn cả đất “, nó vừa rời rẽ, vừa gắn bó. Đất màu mỡ, cát khô cằn, vậy mà cây cối vẫn phải bám vào thứ đất loại hai đó. Bước chân người ta trên cát như bị giữ lại, chặn đứng lại, mà vẫn phải đi. Mỗi bước đi người ta ghi rất rõ trên cát, hằn trên cát. Có thoát được cát đâu? Cát chỉ chịu chi phối của gió, của nóng, của biển. Tưởng vô tình thế, mà sao cát vẫn có dáng hình, có vóc vạc, dồn lại thành cồn. Nhà  trên cát thấp bé. Nhà của những người dân chài. Đó là những con thuyền ghé lại trên cát, để mai này đi xa. Và trong cái nhà cát đó, bước chân người ta lúc nào cũng ở trên cát, không thứ giày dép nào đỡ được. Nhà cát, sân cát, có lẽ đến cái bát ăn cũng cát lạo xạo. Phải dọn dẹp đi, thì chỉ một cái chổi là xong. Rồi không ai nghĩ là phải sạch sẽ hơn nữa.
Những gia đình Quảng Bình. Người đàn bà vập vạp, người đàn ông múp míp. Vợ 42, mà 9 con. Cái dáng lừng lững, chắc còn đẻ nữa.

27-5
Bắt đầu nghe được nhiều chuyện Quảng Trị.
- Có những bà mẹ, sau những ngày năm 68 trở nên kinh hoàng. Không dám làm gì cho ta nữa. Bây giờ bộ đội vào, lúc đầu bà cũng sợ hãi.
- Một đồng chí của ta nằm hầm 4 năm, ăn không thấy cơm, uống không thấy nước; ông nằm hầm, nghe tiếng xe tăng, nhưng mãi không thấy tiếng súng chỉ nghĩ là xe tăng của ta, đội hầm lên, bị bắn chết.
- Ở vùng mới giải phóng, anh nào chào mình bằng anh, chú, tức là đã giác ngộ, anh nào gọi bằng chào bộ đội tức là hơi bàng quan. Còn người nào gọi bằng ông (y như bọn địa chủ ngày mới cải cách) tức là chưa hiểu gì cả.
- Có nhiều người ở vùng mới giải phóng, rất tinh khôn trong những chuyện lặt vặt, nhưng lại rất ít hiểu biết về chính trị, có thể bảo về chính trị họ rất dại dột.

Chuyện do Xuân Đức kể
QTrị 55 vạn dân - ra ta 2 vạn. Dân chạy ào vào trong, ngăn cản không kịp. Ta chặt cầu Mỹ Chánh, họ đổ hướng đông, rồi lại vòng đường tây.
- Nhiều gia đình 1/2 theo ta, 1/2 theo địch, để sau này có chỗ dựa.
Hoang mang sợ. Thấy cờ mặt trận đâu, chạy ra lối khác. Chạy ra đầu xóm thấy cờ mặt trận lại chạy về, sợ phi pháo.
Một bà già, có đứa cháu ngoại, con Mỹ (da đen). Bà ẵm cháu ra, một người bảo: Ra Việt cộng trả thù. Ném đứa cháu xuống hố. Sau bộ đội mình lại đón em bé.
“Gạo cụ Tôn không ngon bằng gạo cụ Thiệu”
“Chúng tôi làm gì có gạo. Gạo chúng tôi trồng, chúng tôi ăn một hạt thì bà con ăn 9 hạt, 2 đứa con tôi hy sinh trong đó. Đồng  bào cần người, chúng tôi có người, cần của, chúng tôi có của, còn nói gì.”
 Con nít đã đành, cả những bà già cũng bắt bộ đội.

Đêm từ Bãi Hà qua Bến Hải. Đồi cao su trồng thể nghiệm, vệt đường gồ lên, bùn ngập đến nửa bánh xe. Những hố B52, xe nghiêng đi người ngồi bên xe chạm cằm người ngồi giữa. Xe rệ, xe lại lên.
Sông Bến Hải thượng nguồn. Rào Thanh. Xe lội qua dễ dàng. Xe ở trong ra vẫn nhiều. Chạm nhau, va nhau, chửi nhau, sau lại bật đèn lên, rồi hỏi quê hương nhau.
- Lê Lợi có biết cô Ngọt không?
- Lại không biết.
- Nó làm như bà xã của nó ấy.
- Về Lê Lợi mà ăn lạc...
Đến một quãng nữa thì đỡ dốc. Đường rộng hơn. Một đồng chí đứng trên xe, đây là vùng cũng thuộc động Cô Tiên đây -- đây cũng thuộc miếu Bái Sơn đây. Qua Cam Lộ rồi. Sông cũng rất hẹp. Bên bãi sông những con bò nhà dân “chạy loạn” nằm dài, một vài con cổ còn đeo những thứ lục lạc kêu lanh canh.
Vào trong này, chỉ còn xe bộ đội. Tiếng người ra “Vào mà làm nốt cái Huế” “Bây giờ mới vào cơ à, bọn này vào hàng tháng trước mà chỉ có ông bơ thừa”.
Một đoạn đối thoại
- Giá có cầu thì đi đường một có phải thích không?
- Đến Hà Nội cũng không có cầu nữa là ở đây.
Có tiếng xe ầm ầm dội lại. Tăng ra, cả đồi cây đi lầm lầm trong đêm.


29-5 T.70,  trạm giao liên ở cửa ngõ Q.Trị, trên đất Lào

 Chỗ nào cũng gặp những con đường mới làm. Cảm giác lẫn lộn, nó vừa rộng dài, thoáng đãng mà lại cũng là chui nhủi lẩn quất. Những con đường mới, như những vị trí sơ tán, người ta buộc phải sống.
Còn trên đường, lúc nào những người trên xe cũng hỏi về đường số 1, nhớ về đường số 1. Đường số 1 là cái nhà, chỗ ở chính. Bao giờ nó cũng dẫn tới thành phố. Bao giờ về với nó, chúng ta cũng thấy yên tâm, thấy quen thuộc, thấy thuận lợi. Đường 1 là đồng bằng, đường 1 là hòa bình, là cái nhịp sống cái  cuộc sống đáng lẽ là bình thường mà bị đánh mất.

Xuân Miễn kể 1968 tác giả chính là Nguyễn Chí Thanh; ông này phát động giỏi, cứ làm, nhưng sau đó ra sao thì không cần biết. Năm 1972 này là năm đánh lớn, dùng quân đội chủ lực, sức mạnh của chủ lực. Tất cả lần này, chịu tác động của 1968.

31/5
Giữa rừng già, trong một lán đào sâu xuống lòng đất, ánh đèn dù dọi từ xa hắt trên mặt liếp…. Chúng tôi nghe diễn văn Nixon ở Moskva. Cái gì vậy? Ông ta nói tới người Mỹ yêu hòa bình, tự trọng. Nói tới một cô Tanhia bị chết trong chiến tranh và mong rằng đừng có ai bị như thế nữa.
Nhưng mà máy bay vẫn bay suốt đêm, và gần sáng, tiếng bom bi còn nổ lụp bụp…
Như thế là như thế nào? Trong thông cáo chung Moskva- Washington, vấn đề Việt Nam chưa nhất trí. Mỗi bên còn giữ lập trường của mình. Vậy thì nước tôi là thế nào?
Văn Thảo  Nguyên  + Thu Bồn: Bây giờ chỉ có mình là ôm lấy phe XHCN. Chỉ có mình. Còn thằng Nga thằng Tàu nó đều bỏ mình.
Nhớ lời ông Ng Khải --  Mình bắt đầu một cái gì, hay là sẽ kết thúc một cái gì đó.
Không hiểu sao, càng ngày tôi càng cảm thấy khó chịu khi nghe người này nói đặc điểm nước mình phải thế này, người kia lấy cớ đặc điểm nước mình nên nó ra thế kia. Và lấy cớ đó để hư hỏng.

12/6
Cam Lộ. Mai Lộc. Những quả đồi cao thấp liên tiếp, nhìn thấy nhau cả mà muốn đến nơi thì đi mỏi mắt. Đất  đỏ, không cây cối gì. Những vệt đất đỏ hằn lên.
Đêm trước, chúng tôi đi trong tiếng gió rào rào trên đường 9. Đi vào Cam  Nghĩa. Xe đỗ dưới một gốc mít, chúng tôi vác ba lô vào một xóm gần đấy. Một cái nhà mà mái tường đều bị đạn, ngoài sân cây cối ngổn ngang. Theo dốc đi lên đi xuống. Đến một ấp, những mái nhà tôn kêu loảng xoảng. Nhà xếp hàng rào dây thép gai. Nhà cửa liền nhau không có cây cối, như một thứ trại lính. Vào nhà, vách gỗ đổ dập, đồ đạc tanh bành -- và cũng chẳng có gì. Sau này, người ta kể: đấy là những nơi đồng bào bị nó dồn lên, ở tạm... Bấy giờ đã là 1h30, chúng tôi đi dưới ánh sao đêm, mới đầu tháng năm âm lịch, nhưng sao đủ sáng để không phải dùng đèn. Những mái nhà tôn vẫn kêu lên mệt mỏi và quả quyết. Rồi trời sáng, những đỉnh đồi xa như gần lại, một bốt gác của địch nhô lên ở một ngọn đồi xa.
Vào Cam Lộ phường. Xóm đồng bào ở cũ, nên còn nhiều nhà cửa vườn tược. Lẫn vào hàng cây làm hàng rào (cây ô rô thì phải) rất đẹp, xén phẳng, là những cuộn dây thép gai bùng nhùng.... Hầm dân công ở cũ dưới một vườn mít. Đồng bào kể mít năm ngoái mới bị hoá học.
Gần đấy: sân bay, doanh trại lữ 147, cũng gần đấy ấp thượng, đồng bào dân tộc...
Chiều hôm sau, trở lại chỗ xe đỗ, hai cái nhà hai tầng mọc trơ trọi trên hai quả đồi. Chung quanh, những cà phê mít cây còn cây đổ, cành khô lẫn với vỏ đại bác. Nhà hai tầng để ở, nhà ít người, chỉ có điều giờ bộ đội đã viết la liệt đủ các khẩu hiệu lên tường. Những người lính đánh xe ngay vào sân, hè nhau vần săng lên xe, lấy đủ các thứ thang, tre làm cầu, một cậu đùa trêu mấy cậu khác: không chịu làm, quai hàm đòi hỏi.
Những người đứng đấy nói đủ các thứ tiếng ở các vùng khác nhau. Các anh vào đây từ bao giờ, một buổi nào sau những đợt tấn công kẻ địch rút. Các anh đổ xe xuống đây và đi vào đây. Những làng xóm không quen biết. Cũng cách sống, con người không quen biết. Và họ bước xuống đó thản nhiên xa lạ. Cho đến cả khi gặp trẻ con họ cũng phải nghi ngại.  Ban ngày nóng nực, họ ngồi nhìn ngóng máy bay và trông làng xóm, nghi ngại... Rồi tối đến, họ lại ra đây, vần săng đi nơi khác.
Buổi chiều còn rớt lại ít nắng, những mảnh đồi xa như mênh mông hơn. Đường rộng, đường tăng cũ của địch, những con đường vập vạp, thô. Không phẳng lì đi, nhưng rộng, tốt. Đường vắt qua đèo. Đường đổ xuống dốc -- Xe cũng thích hợp với đường, toàn những xe đại xa, xe Hoàng Hà, xe Zin ba cầu. Những người lính ngồi trên xe, tức là đứng trong thùng xe, người nào người ấy nguỵ trang, nai nịt gọn gàng, mũi súng thò lên sau vai, hay súng cầm tay, nhiều người ngồi ngả ngốn sau một ngày mệt mỏi, nhưng nhiều người đứng lên, nhìn về những nơi rất xa. Họ nghĩ gì vậy? Họ thấy cái thăm thẳm của rừng núi? Họ nhớ quê hương ở một góc nào đó của tâm hồn, trong họ vẫn có một mảnh đồng bằng rất nhỏ của tình cảm. Nhưng giờ đây, lòng họ hoàn toàn là rừng núi, họ chỉ nghĩ tới công việc, không điều gì có thể làm cho họ mủi lòng. Từ trên xe nhìn xuống, những nhà của địch trong ánh mờ tối trở nên lúp xúp hơn, những rặng chuối nhô ra, nhỉnh hơn sau mấy mái nhà tôn. Tường đổ, vách xụp, mái xiêu, có nhà còn kịp đóng cửa, nhưng không đâu thấy người. Ven đường, chỉ có những nhóm người lính khác đứng rải rác, thỉnh thoảng trong các nhà tôn thấy một vài ánh sáng đèn pin, thì đó vẫn là bộ đội, và cả khu vực này, lâu nay là một thứ quân quốc, mang cái phong cách lính.


14-6
3 thứ nhiều nhất ở Quảng Trị:
1. dây thép gai, dây thép rào cả trong nhà rào cả mả tổ
2. ni lông
3. mái tôn (cả đất đai Quảng Trị như một trại lính lớn)

Câu chuyện người dân và người lính rất nhạt nhẽo. Những người lính về giải phóng quê hương, nhưng người dân xem họ như kẻ ở đâu đến vậy. Trong làng chỉ còn những người già và trẻ con. Tôi hỏi một đứa trẻ: Cháu mấy tuổi - 6 tuổi - Cha mô rồi-- Cha chạy- Mạ mô rồi - Mạ chạy.-- Giừ ở với bà hử - Dạ -- Có thích đi xem chiếu bóng không, có thấy hay không - Dở. Bà không cho đi xem.
Đấy là về sau. Khi vào, người lính ngạc nhiên, tuy vẫn đồng đất nước mình, nhưng rất xa lạ. Còn nhiều ảnh Thiệu. Còn nhiều khẩu hiệu. Còn nguyên những cách nghĩ cách nói của người ở đây.
- Cháu mấy tuổi mà đã mười mấy lần chạy giặc đấy.
- Giặc là ai?
-... Giặc là... pháo đấy
Người ta vẫn ra xem máy bay Mỹ, và cho rằng máy bay Mỹ không ném vào dân.
Sau này người ta bảo: Mỹ đến đây làm gì? Nó lấy sỏi của mình ư? Đấy, bây giờ mình làm lấy đấy, nó đi rồi.
Người ta sống mệt mỏi, rời rã. Đã nghe pháo súng nhiều quá rồi, miễn sao được nghỉ. Có đánh nhau thì con em mình là nguỵ chứ ai. Không ai lo làm ăn. Chỉ nhong nhóng những chuyện gia đình, chửa đẻ, con cái. Nhưng mà người không đẹp, con người thiếu một vẻ đẹp của trí tuệ ánh lên trên nét mặt. Thiếu văn hoá. Cho nên, nếu để một tốp dân công miền Bắc đi bên cạnh những cô quần ni lông áo ni lông, thì những người miền Bắc nhìn vẫn khá hơn - ít nhất với tôi lúc này là vậy.
 Bây giờ có sự gặp gỡ giữa những người lính miền Bắc với xã hội ở đây.
Đôi khi họ cũng muốn bắt chuyện bộ đội.
- Chú bố mẹ còn không?
- Dạ còn.
- Quê  đâu?
- Quê Quảng Trị.
- Không phải.
Thế là thôi. Không còn biết nói chuyện gì nữa.
Có lúc bộ đội làm dân sợ. Tập họp ở trụ sở, một người thấy còn khẩu hiệu cũ liền bắn lên trúng khẩu hiệu. Nhiều khẩu hiệu tương tự  lỗ chỗ vết đạn. Anh em đi qua vội, nhưng nhìn tức mắt khó chịu, bắn rồi đi.

 Một đ/c kể chuyện tiếp quản Đông Hà
-  To hơn thị xã Hà Đông. Ba cầu: cầu vào, cầu ra, cầu sắt. Toàn là súng và sách. Sách đốt không xuể (Sợ khói lên)
- Chỉ xin được 10 lá cờ, lại phải để lại 5 mang vào Ái Tử. Phải may thêm.
- Không có dân, nhưng vẫn lấy pin của nó làm loa truyền thanh, để cho thị trấn nó sống lại. Mở loa suốt ngày. Đọc nhật lệnh UB quân quản. Cốt cho bộ đội nghe. Chỉ có một bà cụ già lên thăm con, con chạy đi, mình bà cụ nhịn đói nằm đấy sau bà cụ lên xin ăn.
- Mang sơn đi xoá khẩu hiệu cũ. Và viết mới - hàng trăm khẩu hiệu mới, gặp đâu viết đấy.
- Ra nhà thông tin của nó.  Nửa nhà toàn phim: Đêm ái tình. Bí mật người phụ nữ. Trong nhà CLB E2 còn nhiều bàn cờ tướng, các loại bài bạc.

Sách của địch anh em lấy về cũng nhiều. C26 một tổ đài quan sát 6 người, 46 quyển - hoàn toàn về văn nghệ. Cả C 180 quyển. Một trạm giữa 2 người mà 5 tiểu thuyết dày. Sau CTV phải mang quang gánh lên gánh về đốt. Các D phải cho điểm nghiệm.

E 58 đóng quân nhà dân. Trẻ con bảo các chú giải phóng không đánh, nhưng chả có gì cho cả. Các chú Cộng hoà hay đánh, nhưng các chú ấy cho nhiều thứ. Nhiều cụ già bảo lính nào cũng là lính cả.


 Tranh ảnh. Ảnh quân lính địch đi gặt “say giặc anh ra chiến trường say quê anh lại về đồng giúp dân”. Sử, khen cả Quang Trung, cả Gia Long. “Công lớn nhất của Gia Long là thống nhất tổ quốc”. Khẩu hiệu sơn vàng chữ đỏ. Những chữ xấu và chữ cổ. Quân giải phóng chữ đẹp- Cả ấp này không có ai chữ đẹp như chữ các chú giải phóng.
- Anh em vào xa lạ với dân: cho là địch cả, cảm thấy bị hẫng
- Coi thường tín ngưỡng đồng bào, vứt cả gia phả của người ta.
- Lạnh nhạt ngán ngẩm

Một đồng chí ghi nhật ký. Đồng chí đó hy sinh. Một biệt kích bắt được, viết vào mấy chữ: Việt cộng bố láo(vì anh em tự hào ghi rất hay) Đến lượt tay biệt kích kia ta lại bắn chết.
Sách đủ loại. Lược sử văn học Việt Nam, Truyện Kiều, Trạng Lợn, Tây Du, Tam Quốc, Sách Toán,  Các tầng địa lý, Thơ Vũ Hoàng Chương.Mâu thuẫn Nga Xô - Trung Cộng, 10 năm xây dựng XHCN, 12 luận đề triết học.Tranh ảnh: phong cảnh, tĩnh vật.


Một đồng chí nhận xét :Truyện của nó không hay. Nhạc không hay. Ăn mặc bẩn (đồ của ta có một cái gì  của con nhà lành ).
Anh em mình mới vào, dễ bị kích động. Không phân biệt được thật giả, khi địch giả dân bị thương vong, anh em sinh ra bắn bừa bãi. Vào nhà dân viết khẩu hiệu: Đả đảo gia đình theo địch.
Mấy năm trước, dân “đến” với ta còn ít, anh em còn tò mò. Ngày nay, tiếp xúc nhiều, đâm ớn, chán. Tuyên truyền đơn giản bật hết. Chỉ còn lại những gì sâu sắc nhất, gạn lọc từ nhiều năm nay. Sau một thời gian,  một cậu bộ đội thú nhận “ Bây giờ tớ mới có thể tin được dân ở đây“. Hiện nay anh em thấy thương đồng bào hơn.

Nghĩ vào Huế: Thêm một chuyển biến chính trị. Nhưng cũng là để vào xem Huế như thế nào.Sơn Nam bảo vào xem SV nó ra sao
Anh em trẻ bốc đồng: cho Huế thấy đạo đức của mình. Tầm lớn của anh em.
Đ/c Hội
-- Địa phương lãnh đạo nổi dậy bị hạn chế. Ta nặng trên giấy tờ. Chủ trương của trên quán triệt chưa đến đảng viên cơ sở; ta đánh, đảng viên cũng đi theo đồng bào. Anh em cho là làng phản động.
--Anh em còn bí. Quân dân chưa keo sơn. Tôi không lo quan hệ nam nữ. Tôi lo anh em thiếu thốn nên không còn được mô phạm và lo cảnh giác. Nếu địch không dùng vũ trang mà dùng những thứ thuốc độc, hoặc dụ dỗ thì mình đối xứ sao.
Bộ đội đối xử  với cụ già cũng như với thanh niên. Vào nhà, chỉ biết chào nhân dân chứ không biết chào các bà, các cụ. Và không biết nói chuyện thêm. Anh em đi lĩnh lương khô, trẻ con đi qua, cho các cháu. Nhưng vào nhà, thấy bảo xé cờ địch, thế là xé cả cờ tôn giáo.

Đ/c Chúc :
  Chuẩn bị vào tiếp quản Đông Hà, nghĩ ra một số khẩu hiệu, cho anh em đọc. Chuẩn bị cờ, băng vải đỏ, đeo loa, giấy vàng giấy đỏ. Ra Cam Lộ tìm không có, lại cắt giấy trắng, giấy in.
Hình dung Đông Hà sẽ có dân, sẽ gặp UBND cách mạng ( Ngoài Vĩnh Linh đã gặp o Lan. Lan đã ghi địa chỉ số nhà). Trông như một phố huyện. Lên đường 9 rộng, nhẵn bóng, xe tăng quay trên mặt đường không việc gì.Thấy nhà tôn ở Cam Lộ đây to, phố huyện quê nhà nhỏ hơn.
5h chiều,  tới Cam Lộ Thấy một gác cao, nghĩ giá kể thời bình vào chè lá, chụp ảnh.
Đoàn đi hơn 20 người (vệ binh- hậu cần...) Dọc đường xe tăng mình,  xe địch nằm ngổn ngang. Gặp một xác chết nằm dang tay dang chân, đầu quay ra đường. Một đồng chí ta bó cẩn thận,  rồi bảo anh em đi gọi người cáng.
Một bà già quẩy đôi thúng chạy loạn. Trăng lờ mờ, thấy cả khuyên vàng.10 h đến thôn Tây. Phía sau thôn là sông.
Nhà cửa tan nát. Những giao thông hào chằng chịt, vào một hầm rộng đủ cho 3 anh em. Bật đèn pin trong hầm,  lấy lương khô ra ăn, nghĩ việc của mình. Sáng sớm dậy, có mấy người đi... Một đồng chí Trinh Sát xách về kẹo, mì, miến khô cho vào một bị, cả một cái đàn.
Tôi đi xin cơm 36. Ăn cơm xong, đi dọc bờ sông. Phía sau là cầu đường sắt một bãi trồng ngô lạc rất tốt. Sông gợn sóng. Vớ được một xuồng, chèo quanh.Thị trấn rất đẹp. Nhà sĩ quan lính ở ngay bờ sông. Nhà đầy sách vở.  Có lần Ngưu+ Đình gọi vào hầm sĩ quan  cũng thấy một đống sách cao.
Đường sỏi. Nhà rời ra từng nhà. Nhà nào cũng có mìn định hướng. Lợn gà chết thối inh lên. Không có ai. Đào hầm cả buổi chiều. Nền nhà xi măng, dưới là cát. Gỗ - bao cát nhiều. Xong ra sông Đông Hà,  nhìn nhớ sông  Ninh Cơ, giữa sông cũng có cồn cát. Trên trời có máy bay, sao nhiều. Đêm đầu tiên chưa có trà thuốc.
Sáng hôm sau, đi gỡ mìn (10 quả) Tháo bột dẻo mìn cơ lây mo. Chuẩn bị cán cờ, lấy gỗ tre... đẽo. Bắc bếp lên, một hộp ca cao. Tranh sơn mài, sa lông, áo trắng dài, màn tuyn. Đồ đạc tanh bành. Ảnh gia đình. Chỉ có mấy gia đình mà đi hết (Ngưu : tớ sẽ xin về đây làm huyện  đội  lấy một cô du kích).
  Chỉ thị: phụ trách vệ binh, treo cờ, truyền thanh. Vải nhiều,  đồng chí Đình biết máy - máy băng. Sáng hôm sau đi. Đường không có cây. Một khu gia binh. Nhà cao - một đồng chí trèo  lên theo dây thu lôi. Khẩu hiệu ở một trường học
Vĩnh biệt Đông Hà nhường lại cho Bắc Việt
Đả đảo Cộng sản  đánh vào  không cho chúng ta học
Cột cờ, dây dù, cờ vàng ba sọc đỏ. Ta giật cờ nó xuống, cắm cờ mình lên. Đứng ở xa nhìn thấy cờ. Khát nước vào tiệm giải khát, còn bàn ghế... nhưng không có bia, cà phê gì.
Đến chợ... vác một vác sách về. Chọn một nhà cao to làm trụ sở UB quân quản. Trong đó lấy một buồng làm kho tuyên huấn. Anh em chỉ cho những hộp bia. Say, mát. Trước không biết. Về hầm nghỉ. Kiếm vải làm  cờ, nhưng máy hỏng gẫy kim
Tôi chỉ thị cho mấy cậu mang ăm pơ li, 1 loa của nó, 1 loa của ta.
Ngày hôm sau ra khu doanh trại, vào nhà Câu lạc bộ sĩ quan. Nhà rộng 7-8 bàn bóng bàn. Chi khu quân sự. Mũ của trung sĩ vứt rải rác. Một phù hiệu Nguyễn Thị Hoa tiếp liệu --thấy vứt trên  đất.
Vào viện cô nhi, một bộ phông màn  văn công điện chùm. Ta đóng hòm các thứ mang về kho. Gì cũng lạ không đủ mắt để mà nhìn. Chè đùm ni lông: Hoa sen, Con vịt, An Thành... Mỗi thứ một, uống thử. Nó xa xỉ nhiều, sẵn của. Sổ tay một sĩ quan còn dòng chữ “Thằng nghèo rớt mồng tơi, thuốc lá không có mà hút mà còn định đánh nhau với chúng tao.”
Trường học, bàn ghế đẹp, khẩu hiệu...Trường 2 tầng, mười mấy gian. Trường tư thục. Anh em mang xe đi lại, hăng. Thỉnh thoảng có tiếng nổ, mìn tự huỷ. Bom thả. Đường đi đã lạc hướng. Bom lộng óc. Hôm sau, địch đánh sập nhà UB quân quản.Bom đánh vào chỗ thông tin. Bom nổ gần, anh em bỏ ra gần nhà tám mái. Đi dọc đường một ven sông. Trẻ con hát. Lạc, lúa tốt.
8h đêm vào nhà một ông cụ. Ông cụ có con trai tập kết nhưng cháu nội đi lính nguỵ, mẹ nó chạy theo con. Một người thiếu phụ 28 tuổi có con, đến ở đấy. Đêm họ ngủ một hầm. Những cảnh sống lang chạ. Những sự phiêu bạt. Như súng đạn giặc vứt dọc đường. Lấy gạo, gà... chúng tôi cho ông cụ.
Vào một nhà ở Quất Xá. Nhà đang có giỗ. Những đứa con trai theo học ở Đông Hà theo vào trong, đứa con gái thì bị chết. Bữa giỗ chỉ có ông cụ bà cụ và mấy anh bộ đội. Thịt một con gà. Ông cụ bảo tôi cho là chính phủ nào cũng cần dân, nên tôi cứ ở lại, dù thấy hàng xóm ở đây đi cả. Ở đây trước các anh Việt cộng vẫn về hoạt động, đêm đi ở ngoài, nhưng tôi không báo cho nó. Báo cho nó, nó về lục soát, lại cũng chỉ tổ khổ mình.
Những sinh hoạt bình thường trong chiến tranh: người ta vẫn giỗ chạp, vẫn tết nhất. Tay lính nguỵ năn nỉ nhờ một người dân cắt tóc.